CƠ GIỚI HOÁ NỀN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

line
15 tháng 11 năm 2020

KHOA KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ, VHU

Việt Nam nằm trong nhóm bảy quốc gia trên thế giới được thiên nhiên ban tặng các điều kiện để trở thành quốc gia có nền sản xuất nông nghiệp tốt nhất. Tuy nhiên, hiện trạng nền nông nghiệp của đất nước ta vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có. Để trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về sản xuất nông nghiệp, việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất là yêu cầu tất yếu, trong đó khâu cơ giới hóa (CGH) là yêu cầu hàng đầu. CGH bao trùm các khâu từ làm đất, bón phân, tưới tiêu, thu hoạch và cả công nghệ sau thu hoạch. Lợi ích của CGH là rất rõ ràng, ai cũng có thể nhìn thấy và hình dung.
Thứ nhất, CGH giúp cắt giảm nhân công lao động, giải phóng sức lao động của con người. Nhờ cắt giảm nhân công lao động, lợi nhuận tổng thể của nông sản sẽ tăng lên rõ rệt. Theo nghiên cứu, nếu đưa cơ giới hóa vào sản xuất thì sẽ cắt giảm được 2000 đồng chi phí trên mỗi kg lúa thành phẩm ở khía cạnh nhân công lao động, đồng nghĩa với lợi nhuận của bà con nông dân tăng lên rõ rệt nếu nhìn vào sản lượng rất lớn của lúa gạo Việt Nam mỗi năm.
Thứ hai, CGH giúp tăng năng suất của cả nền sản xuất, nhất là sản xuất hàng hóa lớn. Nhờ CGH, rút ngắn được quá trình làm đất, bón phân, tưới tiêu, thu hoạch,… đáp ứng được yêu cầu về “thời vụ” của nền sản xuất nông nghiệp. Rút ngắn được thời gian cho mỗi công đoạn đồng nghĩa với việc giữ được chất lượng của sản phẩm nông nghiệp ở mức tốt nhất, gia tăng được giá bán và lợi nhuận cho bà con nông dân.

Hình 1. Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp

Thứ ba, CGH giúp tiết kiệm các tài nguyên ĐẤT và NƯỚC, bảo vệ hai nguồn tài nguyên quan trọng mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước nông nghiệp như Việt Nam. Trong đó, khâu san phẳng mặt ruộng bằng công nghệ laser giúp chống rửa trôi dinh dưỡng trong đất, khâu tưới tiêu bằng công nghệ cao giúp tiết kiệm nguồn nước, giữ được nước cần thiết cho nhu cầu của cây trồng.

Hình 2. Hệ thống tưới nhỏ giọt trong nông nghiệp Công nghệ cao

Thứ tư, CGH kết hợp với công nghệ cao giúp “chẩn đoán” được cả bệnh tật của cây trồng, vật nuôi, từ đó chuyển từ hình thức “trị bệnh” tràn lan sang hình thức vừa “khám bệnh” và “trị bệnh” đúng đối tượng, đúng khu vực, tiết kiệm được chi phí thuốc bảo vệ thực vật và phân bón cho cây trồng. Ví dụ rõ nét nhất ở khía cạnh này là áp dụng công nghệ máy bay không người lái (drone) vào việc chẩn đoán bệnh và phun thuốc, bón phân cho đúng đối tượng cây trồng.

Hình 3. Máy bay không người lái phun thuốc Bảo vệ thực vật

Thứ năm, CGH ở lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch là yêu cầu quan trọng và cấp thiết để nâng tầm nông sản Việt hiện nay. Nếu làm tốt khâu này, nông sản Việt sẽ giữ được các dinh dưỡng thiết yếu, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của các quốc gia nhập khẩu, tránh được vòng luẩn quẩn “được mùa rớt giá” đã đánh sập cuộc đời của bao nhiêu nông dân Việt Nam lâu nay.

Hình 4 . Hệ thống kho lạnh trong bảo quản nông sản

  Để CGH thành công, yêu cầu hàng đầu là phải tích tụ ruộng đất với diện tích tương đối lớn. Việc này đòi hỏi cần phải có chính sách ở tầm vĩ mô, thực thi đồng bộ từ trung ương đến các địa phương. Chính sách “dồn điền đổi thửa” mà trung ương đã cho triển khai hơn 10 năm nay là “phát pháo” đầu tiên của việc thay đổi hiện trạng nông nghiệp Việt. Tuy nhiên, việc áp dụng CGH vào nông nghiệp ở Việt Nam còn chậm, không đồng bộ và thiếu hiệu quả vì các nguyên nhân sau đây.

Đầu tiên là sự manh mún trong phân bổ diện tích đất nông nghiệp. Ở miền Bắc và miền Trung, diện tích trung bình mỗi thửa ruộng chỉ 350 m2, việc dồn điền đổi thửa sẽ rất khó khăn. Một vài địa phương thực hiện dồn điền đổi thửa, nhưng cũng chỉ đạt diện tích xấp xỉ 500 m2, chưa đáp ứng được yêu cầu CGH. Trong khi đó, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, diện tích trung bình mỗi thửa ruộng là 4000 m2, đáp ứng yêu cầu tối thiểu việc đưa CGH vào sản xuất.
Nền công nghiệp cơ khí nông nghiệp trong nước còn quá non yếu, các đơn vị chủ lực về sản xuất máy nông nghiệp, từ máy động lực (máy cày, máy kéo, …) cho đến các máy công tác (máy xay xát lúa, máy sấy, máy bơm nước, …) đều chiếm thị phần rất nhỏ, như mảng máy gặt đập liên hợp, dòng máy Kubota của Nhật đã chiếm đến 90% thị phần tại đồng bằng sông Cửu Long.
Một khi chưa nội địa hóa được các máy móc này, thì không thể triển khai đồng bộ công cuộc CGH nông nghiệp vì đặc thù “thời vụ” của nền sản xuất. Ví dụ rõ nét nhất là việc nhập máy gặt đập liên hợp của Trung Quốc về và thất bại, vì đến thời điểm thu hoạch, máy hư phải đợi phụ tùng và chuyên gia từ Trung Quốc sang mới sửa được. Trong khi cũng dòng máy này, Trung Quốc đã rất thành công trong khâu CGH nền nông nghiệp của họ (hiện nay thu hoạch lúa nước của Trung Quốc đã 96% CGH). Hay như việc hỗ trợ máy san phẳng mặt ruộng bằng công nghệ laser của IRRI (Viện nghiên cứu lúa quốc tế) cho Việt Nam và Ấn Độ từ 2004. Đến 2019, Việt Nam mới san phẳng được 2000 ha, trong khi Ấn Độ đã san phẳng được 10.800.000 ha. Nguyên nhân của việc này là do máy được Ấn Độ sản xuất, nên khi hư hỏng họ có phụ tùng và chuyên gia để sửa chữa thay thế ngay.
Nhà nước chưa có chính sách cụ thể và rõ ràng để bảo hộ nền công nghiệp cơ khí trong nước, cũng như thúc đẩy sự phát triển của các đơn vị cơ khí nông nghiệp thông qua nguồn vốn hỗ trợ nghiên cứu phát triển. Mới chỉ có các nghị định của chính phủ, các quyết định của Thủ tướng chính phủ, nhưng tất cả mới ở tầm mức qui hoạch và tầm nhìn, chưa thực hiện cụ thể được bao nhiêu.
Nguồn lực con người cho mảng cơ khí nông nghiệp hiện nay cũng rất mỏng. Theo thông tin khảo sát được, trên cả nước hiện nay chỉ còn mỗi Đại học Nông Lâm Tp.HCM còn đào tạo ngành Cơ khí nông nghiệp, với đầu vào chừng 70 sinh viên mỗi năm, các trường khác (Đại học Cần Thơ, Đại học Bách Khoa Tp.HCM, học viện Nông Nghiệp VN, …) đều đã đóng cửa ngành đào tạo này hơn 20 năm qua. Trong số 10.000 kỹ sư cơ khí nông nghiệp tốt nghiệp ra trường kể từ 1976, theo thống kê, hiện tại chỉ chừng 2% (chừng 200 người) trong số này còn làm việc đúng chuyên môn, nhưng tất cả tập trung về các đô thị ! (trong khi khu vực cần họ nhất là các vùng nông thôn).
Nhà nước chưa có bất kỳ một cơ chế chính sách nào về bảo vệ và sử dụng hiệu quả hai nguồn tài nguyên ĐẤT và NƯỚC trong sản xuất nông nghiệp. Để chuyển đổi nông nghiệp sang sản xuất an toàn, tiến tới sản xuất hữu cơ thì việc bảo vệ đất đai màu mỡ, bảo vệ nguồn nước tưới là yêu cầu cấp thiết. Việc này chỉ hiệu quả nếu thực hiện nhanh (vì đã quá trễ trong gần 20 năm qua) việc san phẳng mặt ruộng bằng laser và áp dụng các công nghệ tưới tiên tiến vào sản xuất. Đối với cây trồng cạn (tập trung ở khu vực đồi núi, trung du và vùng Tây Nguyên), trong điều kiện mưa nhiều như Việt Nam (có nơi mưa đến 50-100mm/ngày) thì việc san phẳng đất dưới 5% (để chống rửa trôi) và trên 1% (để tránh ngập úng) mới đáp ứng việc đưa CGH vào trồng trọt.
Thay lời kết:
Cần cơ chế chính sách rõ ràng, cụ thể của nhà nước, huy động được nguồn lực của xã hội cho việc nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp cơ khí nông nghiệp.
Cần cơ chế chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu phát triển các công nghệ mới trong nông nghiệp, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp cơ khí nông nghiệp tư nhân.
Cần cơ chế chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, đặc biệt ngành cơ khí nông nghiệp.
Nâng tầm nông sản Việt, mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho bà con nông dân, để người Việt Nam được sử dụng những nông sản an toàn, sạch, ngon là mong muốn của hàng triệu người!