Các khó khăn và hướng phát triển tương lai của nông sản Việt Nam

line
02 tháng 07 năm 2020
   Đại dịch Covid - 19 hiện đã có thể coi là tạm lắng dịu, khi Liên Hiệp Âu Châu dần dần bãi bỏ các hạn chế trong việc giản cách xã hội. Mặc dù vậy, trên toàn thế giới nói chung, các yêu cầu về tụ tập nơi đông người hoặc những khu vực nhà hàng và khách sạn vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền.


 Hình 1: Nhà hàng và tiệm ăn vẫn phải chịu sự  kiểm soát của chính quyền châu Âu (Nguồn: The Wall Street Journal)
 Hình 2: Xe tải chở hàng nông sản xuất khẩu bị kẹt tại biên giới (Nguồn:Báo Thanh Niên)

   Đại dịch covid – 19 bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Sau đó, lan ra toàn thế giới, vậy câu hỏi là, sau khi nền kinh tế trở về bình thường thì sẽ có điều gì xảy ra?  
   Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với các lợi thế không thể chối cãi. Tại Việt Nam, sự áp đảo này thể hiện trong tất cả các mặt hàng sinh hoạt hằng ngày đều có xuất xứ từ Trung Quốc. Do đó, là một quốc gia nhỏ bé, không thể tránh khỏi sự lệ thuộc tất yếu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc, đặc biệt là ngành nông sản thực phẩm. Và có lẽ không quá khó để nhận ra các bất cập xuất phát từ sự lệ thuộc này.
     Việc xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc không thể phủ nhận có các lợi thế như sau:
   ⚫ Yêu cầu về sản phẩm không cao.
   ⚫ Giá rẻ nhưng có số lượng lớn, tạo nguồn lợi kinh tế cho cá thể, hộ kinh doanh nhỏ.
   ⚫ Hợp đồng ngắn hạn thường là vài tháng, không bị các ràng buộc phức tạp.
   ⚫ Giao thương dùng tiền mặt, không lằng nhằng các bên liên quan.
   ⚫ Giao dịch trực tiếp qua trung gian, phù hợp tâm lý chung của nông dân Việt Nam.  
Nhưng điều đó không khỏa lấp được các vấn đề còn tồn đọng dưới đây trong lĩnh vực nông sản thực phẩm [1].
   Các vấn đề về chất lượng nông sản thực phẩm
   Đa phần các loại mặt hàng nông sản nước ta là dạng sản phẩm thô, thu hoạch tại nơi trồng. Thiếu hẳn các phương pháp và kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch, vì vậy dù là nơi rất đa dạng các chủng loại nông sản thực phẩm nhưng thời gian bảo quản sản phẩm là không dài. Do đó, việc xuất khẩu các mặt hàng này trong dài hạn không thể đáp ứng được các tiêu chuẩn về cảm quan, ví dụ như độ chín, màu sắc và hương vị (do bảo quản không lâu). Thời gian tiêu thụ sản phẩm vì thế ngắn nên rất khó cho việc tập trung số lượng lớn sản phẩm cho các đơn hàng lớn. Ta thấy ở đây là vòng lẩn quẩn:  
   Sản phẩm thô → Bảo quản ngắn ngày → thời gian sử dụng ngắn → chỉ mua bán nhỏ lẻ.
   Hệ quả thứ hai đó là vì thời gian sử dụng quá ngắn nên việc sử dụng chất bảo quản gần như là bắt buộc trong mua bán - xuất khẩu mặt hàng nông sản. Khâu trồng trọt và tuyển chọn nguồn giống thiếu hẳn hoàn toàn các giống có chất lượng cao nguồn gốc nội địa. Việc ứng dụng công nghệ gen, lai tạo, tuyển chọn gần như dậm chân tại chỗ bao năm qua, các trung tâm giống đa phần nhập giống ngoại lai, thành một vòng lẩn quẩn thứ 2:
   Giống yếu kém → sử dụng thuốc → chất lượng nông sản kém → không tìm ra người mua → xuất khẩu bán tháo qua Trung Quốc.
   Hệ quả thứ ba là đất trồng bị xói mòn, việc trồng chuyên canh lâu năm trên một diện tích mà không có sự thay đổi, cùng với việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bảo quản bừa bãi tràn lan, hết mùa vụ này tới mùa vụ khác gây ra vòng lẩn quẩn thứ 3:
   Đất xói mòn → năng suất thấp, chất lượng nông sản kém → tăng diện tích và tăng sử dụng thuốc → sản phẩm ngày càng kém hơn.
   Ba vòng luẩn quẩn này nói không khác đã trói chân nông sản Việt vào thị trường Trung Quốc, và theo đó là sự lệ thuộc không thể tránh khỏi.
   Các vấn đề về giao thương nông sản thực phẩm     
   Hệ thống giao thương các mặt hàng nông sản thực phẩm hiện nay là thông qua thương lái, không qua giao dịch trực tiếp giữa người mua và người bán. Lý do chính yếu vì mỗi hộ gia đình không thể cung cấp theo đơn hàng lớn, do đó cần các đơn vị trung gian thu gom cho đủ số lượng. Điều này tuy mang lại lợi ích chung trong ngắn hạn cho các hộ gia đình, nhưng dài hạn thì câu chuyện chuyên môn hóa rất khó vì đòi hỏi chi phí cao, vượt quá khả năng của một vài hộ cá nhân nhỏ lẻ. Ví dụ: Câu chuyện về ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch là chuyện xa vời với chỉ một hộ nông dân. Đây phải là trọng tâm cho các công ty hoặc vùng xuất khẩu nông sản.
   Về cơ sở hạ tầng, rõ ràng còn rất nhiều bất cập từ hệ thống hạ tầng giao thông đến các loại xe vận tải và các thủ tục hành chính. Vận chuyển hàng nông sản yêu cầu xe phải có hệ thống làm lạnh, chưa kể các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm như thùng chứa, bao bì, … Do đó với quy mô nhỏ, việc xuất khẩu qua Trung Quốc là khả thi hơn cả, dù hiểu rằng chất lượng sản phẩm là tương đối tệ.
   Giao dịch tiền mặt, không có hợp đồng cùng các thói quen nông nghiệp khác cản trở rất nhiều các hoạt động kinh tế tài chính hiện đại như Ngân hàng và Tín dụng. Hệ quả các giao dịch điện tử và công nghệ thông tin, không thâm nhập và phổ biến được về vùng nông thôn khi các giao dịch trực tiếp và qua trung gian vẫn còn tồn tại và bám rễ vào tâm lý người dân.
   Hệ quả tất yếu là sự phụ thuộc gần như tuyệt đối các mặt hàng nông sản thực phẩm vào thị trường Trung Quốc
    Nông sản, thủy sản là nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sang Trung Quốc, luôn chiếm tỷ trọng khoảng 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, không ngạc nhiên là sau một thời gian chúng ta lại có các chiến dịch giải cứu hàng nông sản xuất khẩu không được thông quan. Hàng nông sản Việt Nam cứ một vòng lẩn quẩn:  
   Chất lượng thấp → giá trị thấp → giao thương lạc hậu → xuất khẩu Trung Quốc.

Hình 3: Thanh long tại siêu thị xuất khẩu qua Trung Quốc gặp khó khăn (Nguồn: Báo Tổ Quốc)

   EVFTA là cơ hội vàng cho nông sản Việt Nam [2].
   Trong tình hình khó khăn hiện nay, tìm hướng xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản là điều chính yếu cần quan tâm. Đặc biệt là cơ hội kinh doanh với các khu vực khác ngoài Trung Quốc, sau đại dịch viêm phổi từ Vũ Hán đang là yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết.

 Hình 4: Châu Âu là đối tác mới trong ngành nông sản Việt Nam (Nguồn: Báo Lao Động)

   Trong khoảng thời gian vừa qua, việc Nghị viện châu Âu phê chuẩn EVFTA đã đưa Việt Nam thành nước đang phát triển đầu tiên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có quan hệ thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU). EVFTA khi có hiệu lực sẽ xóa bỏ hơn 99% số dòng thuế theo lộ trình, tạo thuận lợi cho các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu sang thị trường EU hiện nay của Việt Nam.  
   Lượng nhập khẩu nông sản của châu Âu là khoảng 150 tỷ USD/năm. Với giá trị xuất khẩu sang châu Âu chỉ khoảng 5 tỷ USD/năm, đây là ra cơ hội vàng cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
   “EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo với các nội dung chính là: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý - thể chế”.
   Theo các chuyên gia và nhà quản lý [3], EVFTA mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nông sản Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU với 508 triệu dân và tổng sản phẩm nội địa (GDP) khoảng 18.000 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 50,000 USD/năm và sẵn sàng chi tiêu cho các mặt hàng có giá trị cao. Đây là cánh cửa mở cho nông sản Việt Nam thoát Trung Quốc, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực, một thị trường nhất định.
Các sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của Việt Nam hiện nay như: Rau quả, trái cây, gạo, cà phê… được hưởng ưu đãi ngay từ những năm đầu tiên và ít phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của đối tác theo yêu cầu của Hiệp Định [4]. Cụ thể:  
   ⦁ Gạo Việt Nam đã xuất sang các nước trong EU từ lâu nhưng chưa thể cạnh tranh được với các nước khác do phải chịu thuế suất cao; với EVFTA, thuế suất của gạo về 0%.  
   ⦁ Rau quả có 520 trong tổng số 556 dòng thuế về 0%, rau quả chế biến cũng có 85,6% dòng thuế về 0%; hạt điều hưởng thuế 0%; cà phê, hạt tiêu 93% dòng thuế về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.
   ⦁ Không chỉ giảm thuế đối với các mặt hàng cụ thể, mà EU còn có cơ chế bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam như vải Thanh Hà, vải Lục Ngạn, chè Tân Cương, nho Ninh Thuận, xoài Hòa Lộc, quýt Bắc Cạn, gạo Hải Hậu… Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nông sản Việt khẳng định được thương hiệu trên thị trường thế giới.
   Ngoài lợi ích được giảm thuế thì các mặt hàng nông sản Việt Nam còn gia tăng được sức cạnh tranh đối với các quốc gia xuất khẩu khác chưa tham gia vào các hiệp định thương mại tự do.
   Mặc dù vậy, không thể không nói đến các khó khăn đang chờ đón các mặt hàng nông sản của Việt Nam [5], cụ thể:
   ⦁ Tiêu chuẩn chất lượng còn thấp và yếu kém. Ví dụ: Với công nghệ bảo quản “cũ kỹ”, trái Thanh long chỉ bảo quản được trong vòng 35 ngày, nếu vận chuyển bằng đường thủy, sang EU đã mất 30 ngày. “Hạn sử dụng” trái Thanh long chỉ còn 5 ngày trên siêu thị.
   ⦁ Các giai đoạn gia công còn thô sơ, không có thương hiệu. Ví dụ: Các doanh nghiệp Trung Quốc thường nhập khẩu gạo Việt Nam dưới dạng thô (bao 50kg - 100kg), về đóng lại từng bao nhỏ (5kg - 10kg), gắn nhãn mác, bao bì, thương hiệu của họ và bán với giá cao gấp đôi.
   ⦁ Thói quen sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
   Để giải quyết các khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp nhất là các công ty đang kinh doanh trong lĩnh vực nông sản thực phẩm nói chung cần thực hiện các ưu tiên sau [6]:
   ⦁ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ví dụ: tuyển dụng nhân lực ngành thực phẩm.
   ⦁ Đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại.
   ⦁ Đầu tư vào chế biến sản phẩm, nâng cao giá trị sử dụng của nông sản Việt.
   ⦁ Chú trọng chất lượng sản phẩm.
   Kết hợp giữa nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và trang thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu của thị trường, đa dạng nguồn xuất khẩu các sản phẩm nông sản Việt Nam. Đây là hướng phát triển bền vũng, lâu dài và giàu mạnh trong tương lai. Tránh sự phụ thuộc quá nhiều hệ lụy và là “con đường thoát Trung Quốc” của nông sản Việt Nam.
   Tài liệu tham khảo Tin tức
1.    http://trungtamwto.vn/chuyen-de/14908-han-che-phu-thuoc-xuat-khau-nong-sanvao-trung-quoc-van-dung-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-khai-thac-thi-truongmoi
2.    https://baotintuc.vn/kinh-te/evfta-la-co-hoi-tot-cho-nganh-nong-nghiep-chuyenminh-20200214173822461.htm
3.    https://enternews.vn/nong-san-viet-don-song-evfta-166884.html
4.    https://vtc.vn/kinh-te/evfta-duoc-thong-qua-co-hoi-vang-muoi-de-nong-san-vietthoat-le-thuoc-thi-truong-trung-quoc-ar528085.html
5.    https://www.sggp.org.vn/co-hoi-cho-nong-san-viet-vao-thi-truong-eu-649279.html
6.    https://nhandan.com.vn/kinhte/item/40956302-nong-san-viet-nam-tan-dung-cohoi-tu-evfta.html